Thứ Hai, 19 tháng 4, 2010

- Những khoảng trống đầy biểu cảm

Trích : Nghệ thuật bố cục và khuôn hình. tác giả họa sĩ Đức Hòa dịch từ bản tiếng Pháp
A. Những khoảng trống hay không gian bao quanh chủ thể chính - chúng thậm chí là tập hợp choán đầy các yếu tố phụ hoặc yếu tố giai thoại - có thể có một giá trị biểu cảm lớn hơn cả khoảng đặc ( những yếu tố nhìn thấy , những hình thể hiện hữu ) Thậm chí những khoảng trống này cho ta một ý nghĩa sâu thẳm của bức tranh

Ví dụ , chủ thể , nếu được bao quanh bởi những khoảng trống lớn như ở đây , sẽ cho một ấn tượng cô đơn về thể chất hoặc tinh thần : bơ vơ , cô đơn , bối rối ...

B. Tuy nhiên , tất cả phụ thuộc vào vị trí mà những khoảng trống chiếm lĩnh trong khuôn hình . Một khoảng trống lớn ở phần phía trên của bố cục có thể góp phần nhạy cảm vào việc tăng cường cho ý tưởng về định mệnh đè nặng lên hai vai của chủ thể , hay cả ý tưởng về sự mệt mỏi ủ rũ của anh ta về thể xác hay tinh thần .

C. Một khoảng không gian rộng ở phía trước hình ảnh sẽ nhấn mạnh ý định xuất phát hay ý đồ chạy trốn của chủ thể ( không gian này tạo khoảng cách với khan giả ) nhất là khi anh ta đang chuyển động và quay lưng lại
D. Một khoảng trống lớn giữa hai nhân vật sẽ gợi ý đầy biểu cảm ( có thể nhìn thấy bằng mắt ) cho ý tưởng về sự đối lập của họ , sự bất hoà giữa họ , hay biểu hiện về sự đối địch giữa họ . Về chủ đề này , hãy xem hình ảnh của phim " Giám sát ngay trước mắt "

E. "Chơi" các khoảng rỗng để biểu hiện , đôi khi lại là dùng phần tinh giản nhỏ nhất có thể . Khi một nhân vật biểu lộ tình cảm thấy rõ ( ví như ở đây là một người có vẻ đầy đe doạ ) , thì khuôn hình anh ta theo cách kéo lại gần (các khoảng trống giảm xuống tối thiểu) sẽ góp phần nhạy cảm gây ra bầu không khí căng thẳng cho cả khung cảnh (hãy so sánh A và E )
Một khoảng trống lớn (có bày đồ gỗ ) chiếm hết tiền cảnh và bên trái bức tranh gợi ra đây vẻ cô đơn bối rối của người thiếu phụ đang mê mụ đi vì uống rượu
E.Degas (1834-1917) - Tp: "Trong quán cà phê" hay rượu "ápxanh"

Các khoảng trống đầy biểu cảm , vài nguyên tắc cơ bản :

-Khoảng trống càng lớn sẽ càng xâm lấn hình ảnh ,càng làm bức tranh trở nên "thoáng khí " . Khi khoảng trống lớn này bao quanh toàn bộ chủ thể , nó sẽ cho một ấn tượng cô đơn , cô lập , một cảm giác bơ vơ .
-Ngược lại , khi càng tiến đến gần chủ thể (góc nhìn gần , cận cảnh ) thì các khoảng trống và không gian bao quanh chủ thể càng giảm , hình ảnh sẽ càng có tính chất uy hiếp , áp bức ( tranh thiếu " thoáng khí ")
-Một không gian lớn trống rỗng giữa hai nhân vật sẽ gợi ý bằng hình ảnh một ý tưởng chia ly , tan vỡ , bất hoà , có vẻ đối kháng hoặc ngược lại , ý tưởng tương hợp , thông cảm , đồng ý sẽ xuất hiện khi khoảng trống giảm thiểu giữa hai nhân vật
-Một khoảng trống lớn phía trước chủ thể đang tích cực hoạt động sẽ trợ giúp cho hoạt động . Ngược lại , nếu chủ thể được đặt vào trung tâm , trên đường trục của hình ảnh , mà khoảng rỗng bao quanh quá đều nhau thì hoạt động sẽ gần như bị giảm thiểu tới mức bất động , tĩnh lặng .
A. Khi chủ thể chính đang chuyển động (chạy ,bước đi , nhảy ...) các khoảng trống bao quanh cũng có thể có một giá trị biểu hiện , là sự thú vị để khai thác trong một số trường hợp ( minh hoạ , tranh truyện , quảng cáo ... ) Ta nên loại bỏ ngay ý định đặt chủ thể lên trên trục giữa các hình ảnh (A) là giải pháp đầy do dự mà hiệu quả của nó làm động tác bị đông cứng ( bởi vì khuôn hình của cảnh này có hai khoảng trống quá đều nhau trước và sau chủ thể ) Sau đây còn có hai giải pháp nữa .

B.Hoặc là chúng ta xê dịch (thậm chí rất nhẹ nhàng ) chủ thể so với đường trục chính giữa tranh , sao cho phía trước chủ thể là khoảng trống lớn nhất (đó là giải pháp được sử dụng nhiều nhất ) Hành động dường như bắt đầu (ở đây người chạy lao tới , cố gắng hết sức ) Hoạt động dường như năng động hơn .

C.Ngược lại nếu chúng ta muốn gợi ra ý tưởng về một hành động hoàn tất , một khoảng trống lớn phía sau chủ thể sẽ biểu thị rõ hơn điều này ( chủ thể đã chạy qua khắp cả không gian của bức tranh ) Trái lại hoạt động sẽ dường như kém năng động .

Theo một cách cơ bản hơn , sự năng động của một chủ thể đang chuyển động sẽ động nhất khi hoạt động hướng theo chiều từ trái sang phải , nghĩa là theo hướng dọc thông thường của phương Tây , hoặc nếu nó được đặt trong khuôn hình theo đường chéo góc đi xuống của hình ảnh

Một dạng "quy luật của thị giác" Về lý thuyết mà nói thì đôi mắt thuận chiều : "Từ trái sang phải và từ trên xuống dưới. Cho ta một hình chữ nhật đứng và vẽ một hình tròn vừa phải nằm gọn lên phía trên để một không gian trống phía dưới, nó cũng sẽ tạo cho ta cảm giác, vật tròn từ trên cao sẽ rơi chậm và từ từ... Còn nếu vẽ hình tròn nằm xuống phía dưới sẽ tạo cảm giác vật rơi rất nhanh. Đấy là quy luật thị giác từ trên xuống dưới. Còn quy luật từ trái sang phải cũng vậy, cho hình tròn nằm về phía trái và để không gian trống phía bên phải nhiều sẽ tạo cho vật đi từ từ sang bên trái, và ngược lại.
Như vậy cơ sở để tạo hình trên mặt phẳng, phải là vừa đủ sức căng của hình và nền để tạo sự thuận mắt đến chính xác. Ngoài ra những yếu tố hình hài còn có các yếu tố tương phản. Sáng tối, lồi lõm, sần sùi, nhẵn bóng, xa gần, to nhỏ v..v.
Nếu các bạn muốn tham khảo về tài liệu này nên mua sách " Cơ sở tạo hình trên mặt phẳng" của Lê Huy Văn, và Trần Từ Thành. Giáo trình này của Đức.

Khi khán giả xem xét một hình ảnh ( tranh giá vẽ biểu hình hay phi biểu hình , hình ký hoạ , tranh truyện , ảnh chụp ...) ánh mắt của anh ta sẽ dễ bị thu hút và lôi kéo bởi những yếu tố " kể chuyện" miêu tả chủ thể ( hình tượng , đồ vật , nhân vật và bối cảnh ...) nhưng thường không nghĩ ngợi gì về sự hài long mà anh ta có được khi xem tranh cũng như cảm xúc do tranh mang lại có bao nhiêu phần từ các khoảng trống và không gian trừu tượng hơn , được chừa lại bởi các khoảng đặc . Các khoảng trống này trên thực tế , có biết bao sự kết nối vô hình và khó thấy , liên kết giữa chúng và các hình thể khác được thể hiện và tham gia tất cả những gì làm nên các hình khối tạo hình chủ yếu của hình ảnh
Các khoảng trống có thể là tác phẩm là các phần mặt tranh hoàn toàn rỗng , không hề có hình , khi mà chủ thể nổi bật trên một nền rộng trung tính hay trên một khoảng trời quang đãng . Chúng cũng có thể dựa trên một hậu cảnh
Thực hành :

Điều chủ yếu của thao tác sẽ nhằm đảm bảo tính thống nhất về tạo hình của bố cục . Như vậy :
- Các khoảng trống đơn giản đến mức tối đa , tức là có xu hướng hình học : hình chữ nhật , hình ô van , hình tam giác ,các đường hài hoà ...sẽ luôn tạo ra tính nhất quán lớn hơn nữa cho tổng thể và sẽ tạo ra sự dễ dàng đáng kể để "đọc" hình ảnh .

Đối với các thao tác quan trọng để phân chia các mảng ,cần phải luôn luôn bảo đảm rằng các đường viền (hay công tua ) của các hình thể khác nhau sinh ra các khoảng trống (tương đối ) đơn giản mà không gây khó chịu cho mắt . Một nhu cầu luôn luôn thường trực ở hoạ sĩ là đơn giản các hình thể , "tước bỏ" nét vẽ hay ít nhất là "tẩy đi" các góc quá nhọn của nó để đáp ứng nhu cầu chung của tất cả các hoạ sĩ lớn : đặt vào hoà nhập các yếu tố cần miêu tả trong một tổng thể hoàn hảo về mặt tạo hình .

- Khi đường viền của một hình thể tương đối phức tạp , hình răng cưa hay zíc zắc hoặc quá ngoằn ngoèo mà người ta không thể làm đơn giản nó được thì giải pháp sẽ là đem đối lập nó với một hình thể khác có đường viền thẳng hơn , như vậy khoảng trống giữa hai hình thể này sẽ bớt khó chịu khi nhìn .

- Đối với thao tác quan trọng để phân chia các mảng , có một cách khác để đơn giản hoá các mảng trống là tập hợp chúng lại trong một mảng duy nhất có đường viền phức tạp của chúng mà không cần xoá bỏ chúng .

Hơn nữa , khi các thành phần của hình ảnh khá là đông đúc , sinh ra nhiều khoảng trống nhỏ , thì thao tác tập hợp lại các mảng sẽ là có lợi là giảm số lượng các khoảng trống . Bố cục sẽ nhờ đó mà có được tính chất thuần nhất .

- Việc xử lý các khoảng rỗng cũng như các khoảng đặc , sẽ không bao giờ thực hiện được mà không tính đến những sự khó cưỡng lại của mắt người . Vì biết rằng ánh mắt dễ thấy nhàm chán bởi một bố cục quá đối xứng hay thiểu đa dạng , người ta sẽ quan tâm tới những chỗ mà các khoảng trống không quá bằng nhau và cũng không được sắp đặt một cách quá đều đặn trên toàn bộ bề mặt của hình ảnh .

- Khi mà chủ thể được cấu tạo bởi chỉ một mảng chính lớn ( nhân vật toàn thân ) người ta sẽ làm thế nào để nó không bị đặt vào trung tâm , trên trục dọc hay ngang của hình ảnh , để khỏi tạo ra các khoảng trống với kích thước đều nhau .

- Khi chủ thể phải được tập trung trên một trục của hình ảnh , người ta sẽ làm để đường viền của nó tạo ra các khoảng trống không đêù nhau ở hai bên

- Khi chủ thể gồm nhiều yếu tố khác bịêt , được đặt cạnh nhau thì vấn đề cũng là phải chăm lo sao cho các khoảng trống đảm nhiệm tốt vai trò "kết nối" và góp phần vào hiệu quả tổng thể . Đặc biệt người ta sẽ coi chừng các hình thể bên cạnh nhau để chúng không tạo ra một khoảng trống quá thẳng hàng tới mức khó chịu .

- Cũng cần chú ý tới các khoảng trống quá hẹp giữa hai hình thể ở cạnh nhau mà khác biệt . Trái ngược với ý muốn có hai mảng , nếu hai hình thể cách nhau một khoảng hẹp , cũng dường như chỉ có thể tạo ra một mảng mà thôi .

Thêm nữa , các khoảng trống quá hẹp giưã các yếu tố khác nhau sẽ luôn tạo ra vẻ mỏng manh dễ vỡ cho bố cục , nếu không , sẽ là một một ấn tượng lẫn lộn . Các khoảng trống quá hẹp , sát bên lề của bố cục cũng nên tránh . Không mấy dễ chịu cho ánh mắt , chúng luôn tạo cảm giác là khuôn hình kém tự chủ . Nếu không thể thu xếp được một khoảng trống xứng đáng ở bên rìa của khuôn hình , thì một giải pháp tốt sẽ là đặt chủ thể nằm vắt ngang một cách thẳng thừng trên đường viền khuôn hình , nghĩa là "cưa đôi" nửa ngoài , nửa trong , nhằm gạt bỏ khoảng trống rất khó chịu .

Tuy nhiên một sự thái quá dường như tốt hơn và ngược lại . Một không gian rỗng , quá lớn giữa nhiều hình khối khác biệt sẽ cho cảm giác đáng buồn về sự sôi nổi của các thành phần bố cục . Điều này không loại trừ sự tồn tại của các khoảng trống lớn có giá trị biểu cảm , đôi khi có thể xâm lấn phần lớn của tranh mà chúng ta sẽ thấy .

Khi làm bố cục , thường thì người ta không mấy bận tâm tới các khoảng trống với mục đích chỉ để làm đẹp . trong một số trường hợp , các khoảng trống và không gian tự chúng có thể có một giá trị và một sức biểu cảm mạnh mẽ thường ít thấy theo các nguyên tắc chủ yếu như ở đây .

TÍNH NĂNG ĐỘNG CỦA ĐƯỜNG CHÉO GÓC :
A và B . Việc chọn một đường chéo góc làm nét chủ đạo của bố cục là môt ý đồ hết sức quyết đoán . Những đường chéo góc thường tạo hiệu quả rất năng động vì chúng buộc ta phải nhìn lướt lên hay lướt xuống theo chiều dốc của chúng . thử nghĩ lại thói quen của chúng ta khi đọc sách từ trái sang phải theo thói quen của phương Tây thì đường chéo góc từ góc cao bên trái của hình ảnh coi như "hạ xuống" và mắt ta dễ dàng lướt xuống tận phía dưới từ trái sang phải . (A) .
Thí dụ , hãy xem Rembrandt nhấn mạnh ý nghĩa của việc hạ chúa Kitô từ cây thánh giá xuống chiếc cáng , bằng cách đặt nhân vật chính trên đường chéo góc đi xuống của bức tranh . Trái lại , đường chéo góc bắt đầu từ góc dưới bên trái thì coi như làm cho mắt chúng ta "nâng dần lên" hoặc "ngẩng nhìn lên" theo độ dốc mộ cách khó khăn hơn (B) .
Nếu người ta muốn tạo sự năng động cho bố cục thì sự lựa chọn đường chéo góc này hay khác sẽ không bao giờ là vô căn cứ . ý định tả sự rơi xuống , đi xuống , trượt xuống v.v... sẽ chỉ đạo hoàn toàn cho sự lựa chọn đường chéo góc đi xuống . Ý tưởng về sự thăng thiên hay sự cố gắng .v.v... sẽ dẫn dắt đến sự lựa chọn đường chéo góc đi lên .
C và D . Sự lựa chọn đường chéo góc đi xuống coi như đường chủ đạo không phải lúc nào cũng có lợi . Khi định rõi theo độ dốc của đường chéo góc này , mắt ta sẽ dễ bị lôi tuột ra bên ngoài khung tranh và bỏ mất sự nhìn nhận đến chủ đề chính . Bởi vậy , người ta thường phải chú ý làm cho cái nhìn của khán giả dừng lại ở đoạn cuối đường chéo góc bằng một vài yếu tố phụ (C) hoặc tấm phông tranh trí (D) . Đó là vai trò được trao cho chiếc cáng và tấm vải liệm ở phía dưới của hình ảnh trong bức tranh " hạ chúa từ thánh giá xuống trong ánh đuốc" của Rembrandt
Rembrandt(1606-1669)- Tp : "Hạ chúa từ thánh giá xuống trong ánh đuốc"
TÍNH NĂNG ĐỘNG CỦA ĐƯỜNG CHÉO ĐI LÊN
Fragonard - Tp : "Cái chốt cửa"
Dù có hay không phải của Fragonard - người ta còn đang tranh luận về chuyện này thì bức tranh trên đây xứng đáng là một kiệt tác nhỏ về bố cục tả hành động , trên cơ sở đường chéo góc đi lên trong tranh . Sự lựa chọn này cho phép làm nổi bật hành động vươn lên của cơ thể và của cánh tay dang với tới cái chốt cửa , gắng hết sức để đóng nó lại . Hiệu quả này còn được nhấn mạnh bởi hai đường nghiêng lớn cùng hướng của hai bên đường chéo góc , một được xác định bởi độ nghiêng của riđô ở tiền cảnh , một nửa bởi độ nghiêng của cơ thể gã trai trẻ . cũng như vậy , việc lựa chọn đường chéo góc như xương sống của bố cục cho phép có thể khéo léo đặt quan hệ với hai yếu tố tượng trưng có ý nghĩa cho tình cảnh này . Kể từ vị trí trái táo , (trái cấm ) đặt trên chiếc bàn một chân , ánh mắt khan giả được trực tiếp dẫn theo chiều dài đường chéo góc lên tới tận cái chốt cửa sắp sửa bị đóng (hành động trên điểm xảy ra sự việc ) .
Nhân đây , xin hãy ghi nhận việc khuôn hình đặt hai nhân vật trên một trong những đường nhấn mạnh theo chiều dọc của tranh , bằng cách áp dụng quy tắc chia ba , cố ý tới mức hai khuôn mặt được đặt trên một trong số các điểm được lợi tự nhiên của tranh
Bruegel le Vieux (1525-1569) - Tp : "Người mù dắt nhau đi"
Dám vẽ bức tranh như trên nên Bruegel quả là một hoạ sĩ khá hiếm ở thời của ông . Khuôn hình đặt chủ đề trượt trên đường chéo đi xuống của bức tranh là nhu cầu sinh ra do sự gợi ý về đời vấp ngã thảm thương của những người mù . Ánh mắt khan giả , khi trượt theo độ dốc của đường chéo đã như đẩy thêm một cách tự nhiên vào thế ngã mất thăng bằng về phía trước của đoàn người mù . Ý tưởng về sự vấp ngã lại còn được nhấn mạnh bằng việc xếp những người mù theo hình rẻ quạt , do đó động tác biến đổi hầu như theo pháp hoạt nghiệm (trên cùng một tranh có diễn giải nhiều động tác liên tiếp của người vấp ngã) .
SỰ NĂNG ĐỘNG CỦA ĐƯỜNG CHÉO GÓC ĐI XUỐNG :
(Chữ trong tranh : "Nhìn đợt sóng khổng lồ chồm về phía mình , Tácdăng tuyệt vọng bơi đi ngược hướng dòng chảy") Tấm hình tranh truyện này gây cảm giác cực kỳ năng động vì người bơi được khuôn hình đặt đúng vào đường chéo góc đi xuống của hình ảnh . Hơn nữa, bố cục không đóng (bên dưới , góc phải ) nên hình ảnh như gợi ý cho chúng ta rằng người đang bơi , bị đuổi gấp sẽ thoát khỏi nguy hiểm (bằng cách trôi tuột ra ngoài tranh)
Lý thuyết thì vẫn là lý thuyết. Nếu muốn là một nhà lý luận thì có thể học thuộc nó. Nhưng đôi khi đi tìm cái đẹp trong ngôn ngữ tạo hình mà nguời ta chẳng nhớ tí lý thuyết nào. Cứ vẽ thật nhiều thì tự mình có lý thuyết của riêng mình.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét