Thứ Ba, 27 tháng 4, 2010

DỤNG CỤ LÀM TRANH KHẮC GỖ

Nếu như bạn có ý định trở thành một nhà điêu khắc gỗ chứ không chỉ là một người thợ mộc bình thường, bạn cần có một số loại dụng cụ nhất định.
Nhóm dụng cụ để mài
Trước khi bắt đầu khắc trên gỗ, việc đầu tiên cần thực hiện là mài sắc các loại dụng cụ. Ít nhất là bạn nên có một viên đá mài và một con dao liếc. Viên đá mài được dùng để làm sắc các lưỡi dao. Có nhiều loại đá mài với các hình dạng và kích cỡ khác nhau. Một số rất thích hợp với độ dài của lưỡi dao khắc gỗ loại ngắn thông thường. Trên viên đá mài có một số hạt đá lấp lánh nhỏ hình thoi có nhiệm vụ làm sắc lưỡi dao.

Một lưỡi dao được mài kỹ sẽ có gờ hơi ráp và có những mẫu kim loại nhỏ vẫn còn bám vào. Chiếc dao liếc sẽ giúp lấy những mẫu này đi. Trong khắc gỗ, việc này cực kì quan trọng, bởi bất cứ vật gì bám vào lưỡi dao đều có thể ảnh hưởng không tốt đến quá trình thực hiện tác phẩm của bạn. Bạn phải làm sạch mọi thứ trên lưỡi dao. Có thể dùng loại hợp chất mài hoặc một miếng ván mài để làm trơn bề mặt lưỡi dao.

Nếu như quyết tâm trở thành một nhà khắc gỗ, lời khuyên cần thiết dành cho bạn là hãy học cách mài và liếc dao. Một khi đã học được kỹ thuật đó, bạn sẽ có thể mài được hầu hết các loại dụng cụ điêu khắc khác. Khi bắt tay vào công việc điêu khắc, chắc chắn bạn sẽ luôn cần những lưỡi dao bén nhẵn. Chúng quyết định mức độ hiệu quả của công việc điêu khắc bạn đang làm.

Nhóm dụng cụ tạo dáng

Mỗi loại dụng cụ tạo dáng trong điêu khắc có một công dụng riêng biệt. Những dụng cụ bạn nhất thiết phải trang bị là: dao khắc, đục gỗ, đục gỗ đầu tròn, giũa gỗ, giũa vân gỗ, một cái vồ (một dạng búa với đầu gỗ to) và có thể là một cái máy khoan nhỏ nữa.

Dao khắc:

Đây là dụng cụ căn bản nhất và chúng có nhiều loại khác nhau bao gồm: dao lưỡi thẳng, dao lưỡi nghiêng, dao lưỡi cong, dao bào, dao cẩn, các loại dao chuyên dụng khác, một số loại dao lưỡi khóa được. Bên cạnh đó còn có cả loại dao cực nhỏ hoặc các dụng cụ cực nhỏ khác.





Vấn đề là ở công dụng của từng loại lưỡi dao. Khi bạn nắm rõ chức năng của từng loại, hiểu được từng loại dao có thể làm được gì, cũng như hình dung rõ ràng công việc trước mắt sẽ như thế nào, bạn sẽ chọn được những chiếc dao phù hợp nhất. Chiếc dao tốt nhất cho một thao tác cụ thể nào đó có thể không phải là tốt nhất cho những thao tác khác. Đó là lý do mà bạn sẽ có nhiều lựa chọn với các loại dụng cụ.

Đục gỗ:
Chiếc đục sẽ có một góc xiên trên một mặt lưỡi đục hoặc có thể có góc xiên trên cả hai mặt của lưỡi đục. Phần đầu của chiếc đục có thể được mài theo góc nghiêng hoặc bằng phẳng. Một số loại còn được làm cong ra trước hoặc sau. Sự lựa chọn rất đa dạng.


Đục gỗ đầu tròn:
Bạn sẽ nhận thấy là trong suốt quá trình khắc gỗ sẽ luôn cần chiếc đục gỗ này. Chúng có rất nhiều hình dạng và kích cỡ khác nhau. Một số loại thì ngắn và to chắc, một số khác thì được nới dài hơn bởi lưỡi đục dài. Có thể bạn sẽ chọn mua nhiều loại khác nhau nhưng không sao, chắc chắn bạn sẽ sử dụng đến chúng khi có dịp.


Giũa gỗ và giũa vân gỗ:
Giũa gỗ thường thô, to và thẳng. Giũa gỗ có hình vuông vức như một dụng cụ mài, nhưng bạn vẫn có thể tìm thấy những chiếc giũa mảnh với đầu giũa hơi cong trông giống một chiếc giũa vẫn gỗ.

Giũa vân gỗ có đặc điểm thường thấy là mảnh khảnh với một đầu được uốn cong. Đôi khi cả hai đầu của cây giũa đều được uốn cong. Ngoài ra cũng có một số loại có hình dạng và kích cỡ khác ở đầu giũa.



Búa vồ:
Những cây vồ là loại búa gỗ nhỏ có giá trị vô cùng quan trọng trong công việc điêu khắc. Chúng thật sự là một công cụ cần thiết cho tất cả các kỹ thuật khắc gỗ.



Nhóm dụng cụ có điện
Có một số dụng cụ sử dụng điện khá phù hợp đối với công việc điêu khắc. Có thể kể đến là khoan, cưa rô-to, cây đục điện, máy xát mini. Thậm chí còn có các dụng cụ khắc khác chạy bằng điện.
Những công cụ này khá đặc biệt bởi có thể giúp người khắc gỗ tiết kiệm được thời gian và công sức. Nhiều người cho rằng chỉ nên sử dụng nhóm công cụ này cho những tác phẩm lớn, đồ sộ. Điều đó tùy thuộc vào sự xem xét, cân nhắc của người điêu khắc.



Nhóm dụng cụ chà và làm nhẵn:
Sau khi công việc khắc và định dạng cho mảnh gỗ hoàn tất, việc tiếp theo là dùng giấy nhám chà nhẵn bề mặt của mảnh gỗ. Đây là thao tác khá quan trọng để chuẩn bị cho việc tạo các bức vẽ hoặc đổ màu và các loại chất khác lên tác phẩm gỗ vừa hoàn thành. Không những những gì còn sót lại của những công đoạn trước sẽ được loại bỏ, mà bạn còn có thể chuẩn bị cho mảnh gỗ của mình sẵn sàng tiếp xúc tốt với các loại hóa chất. Giấy nhám, vải nhám hoặc các loại thẻ nhám sẽ giúp thực hiện thao tác chà nhẵn này.


Thông thường thì sử dụng giấy nhám là hiệu quả nhất. Có rất nhiều loại giấy nhám, từ rất thô, thô cho đến khá mềm phẳng. Ngoài ra còn một loại tương tự là miếng hút thớ gỗ có khả năng lấy đi mùn và mạt cưa bám trên mặt gỗ. Vải nhám thì có dạng cuộn tròn và có các hạt nhám nhiều kích cỡ. Còn các thẻ nhám cũng có những hạt nhám giống vải nhám, có khả năng loại bỏ những vết hồ trên tác phẩm của bạn.

Khắc gỗ là một công việc thú vị. Bạn có thể bắt đầu tạo những tác phẩm nhỏ với túi dụng cụ cầm tay của mình. Với những công việc có vẻ lớn hơn, hãy dùng thêm các dụng cụ khác. Hãy thoải mái và sáng tạo với tác phẩm của mình nhé!

























 

TRANH KHẮC GỖ 3









Nguồn gốc

Kỹ thuật in nổi, về nguyên tắc rất đơn giản, là một trong những phương pháp lâu đời nhất của loài người để giữ lại những ý tưởng về hình ảnh.

Trong các kỹ thuật in nổi khắc gỗ là phương pháp in lâu đời nhất. Người Babylon và người Ai Cập đã từng in con dấu làm bằng gỗ khắc nổi trên đất sét mềm, tại Trung Quốc ngay từ thế kỷ 4 người ta đã biết dùng mực quét lên những tảng đá có khắc chữ và chà giấy lên để in ra.

Trong thời nhà Đường (618 - 907) tranh vẽ và chữ kèm theo (trên cùng một bản in) đã được in ra bằng các bản in gỗ, sách in bằng bản khắc gỗ cũng đã được biết đến từ thế kỷ 9, trong khi loại này ở châu Âu mãi đến thế kỷ 15 mới xuất hiện. Quyển sách lâu đời nhất in bằng bản khắc gỗ được biết đến bao gồm 6 trang với các bản khắc gỗ nhỏ cho nửa trang một là quyển Kinh Kim Cang (tiếng Anh: Diamond Sutra) ra đời vào năm 868.



Khắc gỗ ở châu Âu

Tại châu Âu việc sử dụng con dấu bằng gỗ đã được chứng minh là bắt đầu từ thế kỷ 12: Ở Ý vải được in bằng cách này. Người ta đoán rằng kỹ thuật này lan truyền vào Đức trong thế kỷ thứ 14 qua các người vẽ hình cho con bài.



Các tác phẩm nghệ thuật khắc gỗ đầu tiên ra đời trong khoảng thời gian từ năm 1400 đến năm 1500 trong các tu viện ở Bayern và vùng núi Alpes là các bản in một mặt từng trang rời. Dưới dạng như các tờ truyền đơn hay sách mỏng, các bản in khắc gỗ được dùng để truyền bá các ý tưởng về nghệ thuật, thế giới quan và tôn giáo, đặc biệt là trong thời kỳ của Phong trào cải cách (Reformation).



Bên cạnh các bản in khắc gỗ một mặt, từ năm 1430 đã xuất hiện loại sách in bằng bản khắc gỗ mà mỗi trang được in bằng một bản in khắc gỗ bao gồm cả chữ viết lẫn hình ảnh. Việc sử dụng các bản khắc gỗ để minh họa trong sách càng được phổ biến từ khi Johannes Gutenberg phát triển kỹ thuật in sách. Quyển "Sử biên niên thế giới Schedel" do Anton Koberger ở Nürnberg (Đức) in vào năm 1493 bao gồm gần 2.000 bản khắc gỗ. Để in quyển sách này Koberger đã phải cần đến 100 người thợ và 24 máy ép in nổi.



Khắc gỗ trong thời kỳ Phục hưng

Khắc gỗ đạt đến đỉnh cao đầu tiên trong thời kỳ Phục hưng khi các nhà nghệ thuật như Albrecht Dürer và Hans Baldung tạo ra các tác phẩm có giá trị cao dưới hình thức nghệ thuật này. Đặc biệt Dürer đã giải phóng khắc gỗ ra khỏi tính năng chỉ để minh họa cho sách và mang lại một định nghĩa mới cho khắc gỗ như là phương tiện truyền đạt một tác phẩm nghệ thuật. Về hình thức Dürer mang nghệ thuật khắc gỗ đến gần khắc đồng bằng cách tạo ra được nhiều tông màu giữa đen và trắng.










Trong thời kỳ này cũng đã có những thử nghiệm đầu tiên in nhiều bản khắc gỗ có màu khác nhau trên cùng một bản in vì cho đến lúc đó các bản in rời từng tờ đều được tô màu bằng tay sau khi in ra. Trong một bản in màu thật sự mỗi một màu đều có bản khắc gỗ riêng, khó khăn về kỹ thuật của phương pháp này là ở chỗ không điều khiển chính xác được quy trình in vì giấy co giãn khi thấm ướt và lại được hong khô lại. Các bản in khắc gỗ màu đầu tiên được xác định là vào năm 1486. Lucas Cranach der Ältere (Lucas Cranach Già) và Albrecht Altdorfer tiếp tục thử nghiệm sau đó. Altdorfer đã thành công trong thời gian 1519/1520 với một bản in màu dùng 6 bản khắc gỗ. Sau các tác phẩm của Altdorfer thử nghiệm về in bản khắc gỗ màu tạm thời không còn được tiếp tục ở Đức nữa, có thể là do ảnh hưởng của việc truyền bá rộng rãi các tác phẩm trắng đen của Albrecht Dürer.



Sự phát triển của kỹ thuật khắc gỗ

Cùng với sự phát triển của khắc kim loại, khắc gỗ mất đi tầm quan trọng như là một phương tiện để diễn đạt trong nghệ thuật. So với khắc gỗ, khắc kim loại cho phép nhà nghệ thuật tạo thành nhiều tông màu và nhiều chi tiết hơn. Ở khắc gỗ, tông màu sáng và tối chỉ hình thành nhờ vào chiều rộng và khoảng cách của các đường khắc. Ngược lại, ở kỹ thuật khắc kim loại độ sâu của đường khắc quyết định độ đậm nhạt của màu đen. Vì thế khắc kim loại trở thành một phương pháp được nhiều nhà nghệ thuật ưa chuộng. Xu hướng này chỉ được thay đổi khi nhà nghệ thuật tạo hình người Anh Thomas Bewick vào cuối thế kỷ 18 đảo lộn tất cả các quy luật cắt hình và vì vậy cách mạng hóa kỹ thuật khắc gỗ.



Thomas Bewick là người đầu tiên không khắc các hình ảnh của mình trên loại gỗ được cắt theo chiều dài của sợi nữa mà khắc trên gỗ cứng của cây hoàng dương được cắt ngang chiều sợi và đồng thời dùng những dụng cụ khác để có thể tạo nhiều tông màu hơn, mang lại cho khắc gỗ giá trị ngang như khắc kim loại. Kỹ thuật của ông cũng còn được gọi là chạm gỗ (xylography). Bản in gỗ cắt ngang chiều của sợi có độ cứng gần như thép và vì thế còn hơn cả bản in khắc kim loại. Cùng với phương pháp này khắc gỗ lại trở thành phương tiện được ưa thích, nhất là trong các kỹ thuật in lại hình ảnh. Honoré Daumier và Gustave Doré là những nhà nghệ thuật sử dụng kỹ thuật này nhiều nhất như là một phương tiện để diễn đạt nghệ thuật.



Khắc gỗ ở Trung Hoa và Nhật Bản





Hokusai, Sóng lớn ở Kanagawa (khoảng năm 1830)



Kỹ thuật đồ họa này phát triển trong khu vực Đông Á độc lập với châu Âu. Khắc gỗ đạt đến đỉnh cao đầu tiên ở Trung Quốc trong thời nhà Tống (960-1279) khi các nhà nghệ thuật liên hợp lại với nhau thành lập các xưởng khắc gỗ. Sản xuất khắc gỗ màu đạt đến một trình độ hoàn hảo cao, thế nhưng trong thế kỷ 17 khắc gỗ ở Trung Quốc chỉ được sử dụng để in lại hình ảnh, mà trong đó có rất nhiều cố gắng để diễn đạt lại thật đúng các ấn tượng do vẽ bằng cọ và các tông màu mang lại.



Tại Nhật Bản khắc gỗ lại phát triển như một hình thức nghệ thuật bắt đầu từ khi kỹ thuật này lan truyền vào từ Trung Quốc ở cuối thế kỷ thứ 8. Khắc gỗ tại Nhật Bản đạt đến đỉnh cao trong khoảng thời gian từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19. Đầu tiên, các bản khắc gỗ Nhật là các hình ảnh mang chủ đề tôn giáo được sáng tác trong xưởng khắc gỗ của chùa. Các tác phẩm này có chức năng giống như các tờ in khắc gỗ rời tại châu Âu của thế kỷ 15.



Đầu thế kỷ 17 các nhà nghệ thuật khắc gỗ Nhật bắt đầu quan tân đến các đề tài khác ngoài tôn giáo như các minh họa cho văn học dân gian và cổ điển. Đầu tiên chỉ có một màu, khắc gỗ màu Nhật Bản bắt đầu phát triển từ giữa thế kỷ 18.



Bản in khắc gỗ màu tại Nhật Bản được sản xuất nhờ sự cộng tác của người họa sĩ, nghệ nhân cắt gỗ và thợ in. Để in một bản khắc gỗ màu đã phải cần cho đến 12 tấm khắc gỗ, đòi hỏi phải làm việc một cách rất chính xác. Bên cạnh các tranh về thiên nhiên là các tranh mang chủ đề về cuộc sống hằng ngày như các cảnh luyến ái, tranh từ thế giới của các vũ nữ Nhật (geisha), chân dung của các nghệ sĩ và của những người đô vật sumo.



Đại diện cho nghệ thuật khắc gỗ màu Nhật Bản là Nisikawa Sukenobu, Suzuki Harunobu, Kitagawa Utamaro và Katsushika Hokusai. Thế nhưng vào cuối thế kỷ 19 khắc gỗ màu Nhật Bản mất đi tầm quan trọng về nghệ thuật vì không còn người vẽ đồ họa nào mang lại thúc đẩy mới về nghệ thuật nữa.



Ảnh hưởng của khắc gỗ màu Nhật Bản

Tranh in khắc gỗ màu Nhật bản với các màu in rực rỡ, tương tự như màu trong tranh vẽ màu nước trở thành những vật sưu tầm được ưa chuộng ở châu Âu. Tính cách đơn giản và sức mạnh diễn đạt của kỹ thuật này thúc đẩy các nhà nghệ thuật châu Âu lại tiếp tục quan tâm đến kỹ thuật khắc gỗ và đặc biệt là khắc gỗ màu. Một trong những nhà nghệ thuật đầu tiên tái khám phá ra kỹ thuật này là người Anh William Morris đã dùng kỹ thuật này để minh họa cho sách. Sau năm 1850 những nhà nghệ thuật theo trường phái ấn tượng người Pháp, trong đó có Paul Gauguin, và sau đó là các nhà nghệ thuật theo trường phái biểu hiện (Erich Heckel, Ernst Ludwig Kirchner, Max Pechstein, Edvard Munch, Frans Masereel, Emil Nolde hay ở Thụy Sĩ là Carl Eugen Keel) đã thử nghiệm kỹ thuật này. Đặc biệt là các nhà nghệ thuật theo trường phái biểu hiện đã đánh giá cao khắc gỗ vì tính cách diễn đạt mạnh mẽ của kỹ thuật này.



Ngoài ra nhiều nhà nghệ thuật còn sáng tạo theo cách phối hợp tranh của khắc gỗ màu cổ điển Nhật: Không có một điểm trung tâm trong tranh và vì thế dẫn người xem tranh nhìn qua toàn bộ bức tranh, nhiều bản khắc gỗ có góc nhìn lạ thường và có hình dáng bị cắt đi ở rìa bức tranh. Đặc biệt là các nhà nghệ thuật theo chủ nghĩa ấn tượng hay dùng cách phối hợp này.



Cùng với sự tiến triển của nghệ thuật trừu tượng, khắc gỗ không còn được ưa chuộng nhiều nữa. Ngày nay kỹ thuật khắc gỗ chỉ thỉnh thoảng mới được dùng đến để diễn đạt một ý tưởng nghệ thuật bằng phương pháp in đồ họa. Trong nửa sau của thế kỷ 20, bên cạnh Hans Arp và Frantisek Kupka, HAP Grieshaber là người duy trì giá trị của khắc gỗ như là một phương tiện truyền đạt nghệ thuật. Ông gần như chỉ làm việc theo kỹ thuật này. Ở ông khắc gỗ đạt được tác động lớn trước nhất là nhờ vào sự hòa hợp của các đường nét mạnh mẽ trên mặt vẽ trắng đi cùng với cách diễn đạt có mức độ trừu tượng cao.



Chế tạo bản in

Thông thường gỗ được cắt thành một mảnh dầy từ 2 đến 4 cm có sợi chạy theo chiều của hình (cắt dài). Mảnh gỗ được bào, mài và làm nhẵn cho đến khi bề mặt hoàn toàn phẳng có thể được phủ một lớp sơn nền, thường là một lớp phấn trắng mỏng. Theo thông lệ bản vẽ trước của nghệ sĩ được mang đặt lên lớp phấn này rồi dùng nhiều loại dao cắt theo các đường vẽ trước. Người ta không cắt thẳng đứng mà cắt hai lần, một lần cắt nghiên từ đường vẽ ra ngoài và một lần nghiên ngược lại rồi tách dăm bào ra. Trong phương pháp gọi là cắt đường đen này việc tạo hình được tiến hành bằng đường nét đen trên nền trắng.





Minh họa khắc gỗ ("Woody Allen" của Manfred Behrens) - bên trái là bản đã được in ra, bên phải là bản khắc gỗ



Sau đấy bản in khắc gỗ đã hoàn chỉnh được phết mực in lên bằng một quả banh tròn tẩm mực to bằng nắm tay hay thường hơn là bằng một con lăn.



In

Người ta in bằng cách ép lên bản khắc gỗ một tờ giấy có khả năng hút nước tức là không có pha keo và vì thế mà hút mực và đã được làm ẩm một ít (hoặc là ngược lại ép bản gỗ lên giấy). Có thể dùng rulô hay một trái banh lăn trên tờ giấy hay dùng một cây cọ quét lên để tạo lực cần thiết ép giấy sát vào bản in gỗ. Thông thường nhất là bản in được in bằng máy in sách (máy ép in nổi) có thể ép đều lực lên bản in gỗ và giấy. Sau mỗi lần in phải quét mực lại cho bản in khắc gỗ.



Các loại gỗ được sử dụng





Hartmann Schedel: Tàn phá Jerusalem (1493)



Gần như tất cả các loại gỗ thông dụng đều có thể sử dụng trong khắc gỗ. Một trong số ít loại gỗ không thích hợp cho việc khắc gỗ là gỗ của cây thông (Pinus) vì gỗ này có nhiều mấu và nhựa.



Gỗ thường được cắt dọc theo chiều dài của sợi (gỗ dài). Các loại gỗ cứng như gỗ của cây lê, hồ đào hay anh đào rất được ưa chuộng dùng trong các bản in có nhiều chi tiết vì so với loại gỗ mềm có thể cắt đều đặn hơn và vì thế có thể tạo những đường nhỏ tốt hơn. Gỗ mềm rất thích hợp cho những tác phẩm lớn và ngoài ra có ưu điểm là các tấm gỗ lớn không đắt như từ loại gỗ cứng.



Vân hay cấu trúc của gỗ đôi khi cũng được cố ý sử dụng như là một yếu tố đồ họa. Thích hợp nhất là những tấm gỗ đã qua mưa nắng mà vân của nó nổi lên như hình nổi vì những lớp mềm qua mưa nắng dễ bị mòn nhiều hơn. Tính chất này có thể được làm nhân tạo bằng cách quét tấm gỗ với một cây cọ bằng sắt hay dùng axít nitric loãng để xử lý bề mặt.



Nếu như trong phần lớn các kỹ thuật khắc gỗ việc lựa chọn gỗ chủ yếu chỉ là quyết định của nhà nghệ thuật thì trong chạm gỗ (wood engraving) gỗ phải có sợi nhỏ sát với nhau. Được ưa thích là gỗ của cây hoàng dương (Buxus sempervivens) được cắt ngang chiều của sợi nhưng lại rất đắt tiền vì loại cây này tăng trưởng chậm. Vì thế ở các bản khắc gỗ cũ từ cây hoàng dương mặt dưới được sử dụng lại hay mặt trên được bào đi để có thể khắc bản mới.



Dụng cụ

Trang bị cơ bản của một người khắc gỗ bao gồm:



Dao khắc dùng để khắc các đường thẳng và song song

Dao trổ dùng để tạo rãnh hình chử V

Cây đục bán nguyệt để cắt bỏ đi những phần lớn không phải in.

Dao mỏng dùng để khắc các đường viền.

Một số nhà khắc gỗ chỉ sử dụng các cây đục bán nguyệt nhỏ và lớn chứ không dùng đến những dụng cụ như dao nhỏ. Ngày nay người ta cũng sử dụng các dụng cụ hiện đại như máy phay. HAP Grieshaber còn dùng đến cả máy cưa trong các bản khắc gỗ rất lớn



Đặc điểm của khắc gỗ bằng tay





Köln năm 1531 - Khắc gỗ của Anton von Worms



Một bản in khắc gỗ nghệ thuật có những đặc điểm khác với các bản in đồ họa sử dụng các kỹ thuật khác như khắc đồng hay khắc nạo (tiếng Anh: mezzotint):



Mặt trái của bản in có dấu ấn nhẹ khi sờ vào có thể cảm nhận được.

Nếu in bằng tay, mặt trái của giấy sẽ bóng hơn một ít vì phải dùng dụng cụ để chà xát.

Vì chỉ cần lực ép tương đối ít hơn nên các cạnh của bản in ra không có vết hằn (tiếng Anh: platemark).

Màu của đường kẻ đều hòa trên khắp tờ giấy vì lực ép đều nhau.

Các biến thể của kỹ thuật khắc gỗ





Albrecht Dürer: "Bốn người cỡi ngựa của Khải Huyền"



Các kỹ thuật cổ điển của khắc gỗ bao gồm:



"Cắt đường đen": Các phần nổi (và vì thế được in ra) của bản khắc gỗ sẽ tạo hình, đây là cách đầu tiên của kỹ thuật khắc gỗ.

"Cắt đường trắng": Đường nét được chạm trổ chìm vào gỗ, khi in bề mặt, thật ra là nền của bức tranh, sẽ được in ra, hình ảnh được tạo thành bởi các đường nét trắng do không được in. Phương pháp này được sử dụng nhiều nhất là trong thế kỷ thứ 16. Albrecht Dürer là một trong những nhà nghệ thuật đã sử dụng phương pháp này để tăng thêm ấn tượng cho các tác phẩm của ông.

Nhiều nhà nghệ thuật (Paul Gauguin, Edvard Munch, Ewald Maraté 














TRANH KHẮC GỖ 2













- TRANH KHẮC GỖ 1